Thứ nhất là về cơ sở vật chất phục vụ cho ADIZ. Nhằm thực thi nhiệm vụ của ADIZ, ngoài sự hỗ trợ của các căn cứ không quân, Nhật Bản đã xây dựng 28 căn cứ giám sát bằng radar chính xác cường độ mạnh, riêng ở quần đảo Ryukyu đã có 4 trạm radar, trong đó 1 trạm radar đặt ở đảo Miyako, chỉ cách đảo Senkaku/Điếu Ngư mà hai bên đều tuyên bố chủ quyền khoảng 200 km.
Phần cứng hỗ trợ thực thi nhiệm vụ của ADIZ do Mỹ thiết lập thậm chí còn mạnh hơn nhiều. Chỉ riêng ở miền Đông nước này, Mỹ đã xây dựng 178 trạm radar trong hệ thống ADIZ, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của máy bay cảnh báo sớm AWACS, 8 căn cứ không quân và hàng loạt căn cứ tên lửa đạn đạo dọc bờ biển.
Đồ họa về khu vực Nhận dạng phòng không (ADIZ) mà Trung Quốc đơn phương thiết lập.
Hiện nay, người ta không rõ Trung Quốc có bao nhiêu phần cứng hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ của ADIZ, nhưng từ những gì báo chí đưa tin thì thấy sau khi tuyên bố thành lập ADIZ, Trung Quốc đã “điều hai đợt máy bay tuần tra một lượt.”
Mấy trăm nghìn kilômét vuông mặt biển mà chỉ có tuần tra như vậy thì không khác nào “mò kim đáy biển”. Trừ trường hợp Trung Quốc không muốn xây dựng ADIZ thành hệ thống “một giọt nước cũng không lọt qua”, nếu không, việc Trung Quốc làm như vậy chỉ có thể hi vọng mang lại sự răn đe nào đó, không đạt được hiệu quả đầy đủ của ADIZ.
Thứ hai, liệu Trung Quốc đã đủ năng lực chấp pháp để đối phó với nước lớn từ chối hợp tác (đáp ứng yêu cầu về ADIZ do Trung Quốc đặt ra) hay chưa? Bất chấp tất cả cưỡng chế chấp pháp và không ngại xảy ra xung đột do cưỡng chế chấp pháp gây ra, nói thì hay, nhưng cái giá phải trả lại quá lớn.
Chưa có bình luận. Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này.