Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam về cơ bản là một thị trường mới nổi, trải qua thời kỳ phát triển khó khăn và thách thức, cho đến nay vẫn trong tình trạng kém phát triển.
Theo tôi, có một vài nguyên nhân sau.
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng chiếm vị thế thống lĩnh thị trường tài chính. Những năm gần đây mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng đã được kiểm soát chặt chẽ hơn nhưng vẫn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế 2-3 lần. Phần lớn các doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào vốn ngân hàng, các loại hình vốn khác có rủi ro cao ít được quan tâm hơn. Hơn nữa, lãi suất trung dài hạn của thị trường tín dụng khá cao đẩy lãi suất trái phiếu doanh nghiệp lên mức cao, gần với thặng dư vốn bình quân. Vì vậy, các doanh nghiệp sử dụng vốn từ trái phiếu doanh nghiệp sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Thứ hai, kỳ hạn của trái phiếu doanh nghiệp thường là 3 năm. Đây là một yếu tố hạn chế khả năng đầu tư và sinh lời của doanh nghiệp khu vực sản xuất. Chính vì vậy, cơ cấu giá trị của trái phiếu doanh nghiệp thường tập trung vào những ngành có yếu tố đầu cơ cao như bất động sản (chiếm tới 35% tổng số lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành) hoặc để gia hạn vốn chủ sở hữu cấp 2 của ngân hàng (chiếm 30% tổng số lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành). Trong đó, lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp được dùng vào mục đích đảo nợ, góp vốn mua cổ phần hoặc mua bán sáp nhập.
Như vậy, số lượng trái phiếu doanh nghiệp phục vụ cho khu vực sản xuất trực tiếp như công nghiệp chế biến chế tạo, nông nghiệp, công nghệ cao, thương mại, doanh nghiệp khởi nghiệp là hạn chế. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam méo mó và phát triển ì ạch.
Cuối năm 2021, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã có những quy định mới giám sát thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Đặc biệt, Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định cụ thể.
Theo đó, các tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi đạt tỉ lệ nợ xấu dưới 3% tại kỳ phân loại nợ mới nhất. Các tổ chức tín dụng không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành với mục đích cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp phát hành. Các tổ chức tín dụng cũng không được mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành nhằm mục đích tăng vốn chủ sở hữu hoặc góp vốn mua cổ phần tại các công ty khác.
Thông tư 16 nhằm vào việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp và định hướng vào việc phát hành trái phiếu để huy động vốn thực hiện các dự án thuộc khu vực sản xuất như công nghiệp chế biến chế tạo, công nghệ cao, nông nghiệp và thương mại. Việc định hướng và giám sát mục tiêu sử dụng vốn từ trái phiếu doanh nghiệp như trên là đúng hướng. Vấn đề cốt lõi còn lại để phát triển lành mạnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp chính là giải quyết các vướng mắc từ phát hành (đầu vào).
Các vấn đề này gồm minh bạch thông tin tài chính và mục đích sử dụng vốn của nhà phát hành, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và khách quan, để nhà đầu tư lựa chọn trái phiếu doanh nghiệp phù hợp với cấu trúc rủi ro và kỳ hạn của lãi suất.
Bên cạnh đó, mặt bằng lãi suất cũng phải được định hướng hợp lý theo nguyên tắc thị trường, tránh yếu tố đầu cơ. Kỳ hạn của trái phiếu doanh nghiệp cũng phải đủ dài để phù hợp với thời gian đầu tư và sinh lời của các doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất. Tài sản đảm bảo và cơ chế bảo lãnh của trái phiếu doanh nghiệp phải rõ ràng, minh bạch và phải được giám sát từ cơ quan quản lý có thẩm quyền.

TS.Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh doanh, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia.
Chưa có bình luận. Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này.