Tý nói rằng, Tết đối với anh là những ký ức đau buồn trong quá khứ và là sự hành hạ tâm thần trong hiện tại.
Nghe Nguyễn Văn Tý nói vậy, tôi tưởng anh còn vướng mắc điều gì với cán bộ Trại giam Thủ Đức. Trước đó tôi đã trò chuyện riêng với rất nhiều phạm nhân ở trại giam này nhưng tuyệt nhiên không có bất kỳ lời ca thán hay phàn nàn nhiều. Có những phạm nhân thậm chí còn nói với tôi rằng, họ không thể ngờ môi trường cải tạo ở trại giam này lại trái ngược hoàn toàn so với sự tưởng tượng không mấy tốt đẹp của họ trước khi vào đây.
Nguyễn Văn Tý bảo, khi còn ở ngoài xã hội, nhiều lúc anh còn không có lấy một chỗ tử tế để ngủ, thế nên chẳng có điều gì phàn nàn về trại giam, thế nhưng mỗi dịp tết đến, anh lại ý thức rõ nhất về sự bơ vơ của mình.
Đây không phải là lần đầu tiên Nguyễn Văn Tý cải tạo tại Trại giam Thủ Đức. Trước đó Tý từng thụ án tại trại giam này do tội danh cố ý gây thương tích khi anh chưa đủ 18 tuổi. Vừa ra khỏi trại giam chưa được bao lâu, Nguyễn Văn Tý lại tiếp tục lĩnh án 9 năm vì buôn bán ma túy.
Trong cuộc trò chuyện với tôi, Tý luôn miệng nói rằng mình làm sai thì mình phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Nhưng Tý khóc nấc lên trước câu hỏi tại sao của tôi, bởi câu hỏi ấy khiến cho những dòng ký ức đau buồn của anh, giống như một cuốn phim quay chậm lần lượt chạy lại rõ mồn một, không thiếu một chi tiết nào.
Ngay từ khi sinh ra, Tý đã không biết mặt cha mình là ai. Bi kịch hơn, 7 đứa em còn lại của Tý cũng không biết mặt cha chúng là ai. Tý chỉ biết rằng, từ khi biết nhận thức, anh đã là một đứa trẻ bụi đời. Ngày, thằng nhóc lầm lụi theo mẹ đi xin ăn dọc các phố phường ở Sài thành. Tối đến, công viên Lê Văn Tám trở thành nhà và ghế đá trở thành giường ngủ của thằng bé ấy.
Một đứa trẻ chưa bao giờ biết đến một ngôi nhà tử tế thì nó sẽ chẳng bao giờ mơ đến một ngôi nhà tử tế. Hơn nữa, ít nhất trong ngôi nhà nghìn sao của mình, mẹ nó vẫn yêu thương nó giống như bao bà mẹ thương con khác. Cuộc đời sẽ cứ thế trôi đi nếu không có những biến cố. Nhưng cuộc đời lại không có chỗ cho hai từ giá như.
Biến cố ấy bắt đầu khi các em của Tý lần lượt ra đời. Cuộc sống dù có vất vả hơn khi số tiền hai mẹ con kiếm được mỗi ngày phải san sẻ thêm cho các em nhưng nó vẫn trôi qua một cách yên ổn bởi tình thương mẹ dành cho Tý không hề giảm dù có phải chia bớt cho các em. Bi kịch bắt đầu đến khi các em của Tý ốm phải đi bệnh viện.
Khi mẹ tất bật chăm em trong bệnh viện, cả bốn miệng ăn đều trông chờ vào thằng bé 5 tuổi. Tý nói rằng anh không bao giờ quên cái cảm giác một mình lầm lũi cúi mặt đi khắp các chợ để xin tiền cho các em có được một bữa ăn no trong bệnh viện. Những ngày không xin được đồng nào, thằng nhóc 5 tuổi phải đi ăn cắp để có tiền mang về cho các em trong bệnh viện. Có những lần bị bắt, Tý bị người ta đánh thừa sống thiếu chết nhưng rồi người ta cũng tha không đưa đi trại trẻ mồ côi hay trại giáo dưỡng vì còn quá nhỏ. Những lúc ấy, Tý mới thấm hết ý nghĩa của hai tiếng bụi đời.
Suốt mấy tháng ròng như thế từ khi em nhập viện, mỗi ngày trôi qua với Tý vừa là áp lực vừa là cực hình. Thế nhưng Tý không thể nói không bởi mẹ, bởi em còn đang chờ đợi trong bệnh viện. Nếu không có những đồng tiền lẻ nhàu nát do Tý mang về, mẹ và hai em sẽ chết đói. Với một thằng bé mới 5 tuổi, những ý nghĩ ấy buộc nó phải tiếp tục kiên cường, không còn biết xấu hổ, không còn biết sợ hãi là gì nữa.
Một lần đang ngồi lầm lũi trong công viên đếm những đồng tiền mới xin được, những người cùng cảnh ngộ bụi đời nói với Tý: “Sao mẹ con mày phải khổ thế, về mà nhờ gia đình mẹ mày giúp. Nhà ngoại mày đông anh em, ai cũng giàu lắm”.
Chưa bao giờ Tý nghe đến hai tiếng gia đình. Nó tưởng rằng gia đình của nó chính là mẹ, là các em, là những người cùng cảnh ngộ bụi đời ở công viên Lê Văn Tám. Chưa bao giờ nó hỏi mẹ nó cha nó là ai, cha các em nó là ai. Nó chưa bao giờ nghĩ rằng mẹ nó lại có một gia đình, đừng nói tới chuyện gia đình đó còn rất khá giả. Nhưng thằng bé ấy không thể không bận tâm tới những lời nói kia, nó bắt đầu có những câu hỏi và nó buộc phải tìm câu trả lời từ người duy nhất có đáp án – mẹ nó.
Câu trả lời mà nó nhận được chỉ là sự tức giận của mẹ nó cùng lời nói hết sức nghiệt ngã: “Mày không có gia đình gì hết, mày chỉ có tao với em mày thôi. Đừng bao giờ mày hỏi về gia đình nữa”. Từ đó, nó luôn ghi nhớ trong đầu, nó chỉ có duy nhất một gia đình là mẹ và các em của nó. Người mẹ đã phải đi móc túi của người ta, phải đi xin ăn của người ta để cho anh em nó được ăn no. Những người mà nó đã phải đi ăn xin, đi ăn cắp để họ không bị chết đói.
Năm Tý 12 tuổi, mẹ đột nhiên đưa nó cùng đám em lóc nhóc trở về nhà. Không phải là công viên Lê Văn Tám nơi anh em nó lớn lên mà là nhà – nơi những người anh em của mẹ nó đang cư ngụ.
Đó là lần đầu tiên nó biết được cảm giác có một ngôi nhà ở trên đầu, một ngôi nhà thực sự vững chãi. Không phải ngôi nhà với mái vòm rộng lớn ở công viên Lê Văn Tám nơi có những ánh đèn đường rực sáng cả khi về đêm, nơi những ngôi sao lấp láy tỏa sáng những khi những ngọn đèn không thắp, nơi những đêm co ro tránh rét dưới mái hiên khi những cơn mưa dông ào ào ập xuống.
Ngôi nhà mà nó đang đứng là một ngôi nhà đúng nghĩa, hơn thế nữa ngôi nhà ấy lại hào hoa hơn tất cả những ngôi nhà mà nó từng tưởng tượng trước đó. Thế nhưng, cảm giác choáng ngợp nhanh chóng mất đi, thay vào đó là sự tổn thương sâu sắc. Nó cảm giác như nó vừa bị cả thế giới này phản bội. Ngay cả người mẹ mà nó tưởng chừng như không thể nào làm điều đó với nó nay cũng phản bội nó, phản bội niềm tin của nó.
Nó nhớ lại từng lời của mẹ nó đã từng nói: “Mày không có gia đình gì hết, mày chỉ có tao với em mày thôi. Đừng bao giờ mày hỏi về gia đình nữa”. Khi nó muốn có một ngôi nhà, mẹ nó đã đập ngôi nhà trong mơ ấy của nó vỡ tan tành một cách không thương tiếc, dập tắt những mơ ước của nó về một ngôi nhà như nó hy vọng. Đến khi ước mơ ấy không còn nữa, thì mẹ nó lại đưa nó về ngôi nhà ấy, ngôi nhà đã chết trong tiềm thức của nó.
Nó có cảm giác mình bị phản bội bởi thời điểm ấy, những ký ức về những ngày lang thang khắp các ngõ chợ của Sài Gòn xin ăn, những lúc nó bị người ta đánh đập thiếu nước chết, những lúc mẹ và em nó suýt chết vì không có tiền để chữa bệnh và không có tiền ăn. Bao nhiêu tủi nhục ấy giờ dội ngược trở lại và tràn ra ngoài cùng những dòng nước mắt và câu hỏi: Khi ấy gia đình ở đâu. Khi ấy, những người giàu có trong ngôi nhà kia ở đâu?
Nguyễn Văn Tý không kìm được nước mắt khi nhớ lại quãng đời tuổi thơ đầy dữ dội của mình. Tý nói với tôi rằng, anh biết những việc mình đã làm là sai trái. Nó là một cách phản ứng ngược với tất cả những điều mà gia đình kia mong muốn. Nó giống như một sự phản kháng của bản thân anh với những người thân của mình.
(Còn nữa)
Theo Cảnh sát toàn cầu