Chiều 31/10, giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, bản chất nghiên cứu khoa học là tính mới, tính rủi ro và có độ trễ.
Các nghiên cứu được triển khai trong nhiều giai đoạn, nhiều kết quả nghiên cứu thành công vẫn cần tiếp tục được đầu tư nguồn lực từ ngân sách nhà nước hoặc nguồn lực xã hội để phát huy trong thực tế.
Thời gian qua, khoa học công nghệ đã đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội qua một số chỉ tiêu.Đó là chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân; tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá; chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam (GII);
Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; số lượng bài báo công bố quốc tế của Việt Nam; cơ cấu đầu tư cho khoa học công nghệ từ ngân sách và doanh nghiệp; số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích của người nộp đơn có quốc tịch Việt Nam.
"Giai đoạn 2016-2020, các chỉ tiêu này đều có tăng trưởng tốt hơn nhiều so với giai đoạn trước đó", Bộ trưởng cho hay.
Song, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt thừa nhận, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều kết quả từ các nhiệm vụ sử dụng ngân sách còn chậm được ứng dụng trong thực tiễn do vướng mắc về quản lý tài sản công... Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục tổ chức và thực hiện các giải pháp để giải quyết những tồn tại này trong thời gian tới.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt giải trình chiều 31/10 (Ảnh: Quochoi.vn).
Bộ trưởng cho biết, khoảng 10 năm trước, kinh phí hoạt động khoa học công nghệ chủ yếu dựa vào ngân sách (70-80%). Đến nay, đầu tư cho khoa học công nghệ từ ngân sách và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỉ lệ 52 và 48%. Đến năm 2030, tỉ trọng này được kỳ vọng đạt 30/70 như các nước tiên tiến.
Về Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp, theo số liệu của Tổng cục Thuế, giai đoạn 2015-2021, có gần 1.300 lượt doanh nghiệp trích lập quỹ, với số tiền hơn 23.000 tỷ đồng, trong đó số sử dụng 14.000 tỷ đồng (chiếm 60%).
Tuy vậy, việc trích lập và sử dụng quỹ có vướng mắc, như tỷ lệ trích lập chưa phù hợp với cơ cấu và quy mô của doanh nghiệp Việt Nam, trong đó phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không có doanh nghiệp FDI nào trích lập quỹ, cho thấy cơ chế khuyến khích trích lập và sử dụng chưa đủ hấp dẫn.
Chưa có bình luận. Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này.