Ngày 12/1, TAND TP.Hà Nội tiếp tục phiên xét xử ông Đinh La Thăng và đồng phạm, trong phần luận tội của VKS trước đó, bị cáo Phùng Đình Thực, nguyên TGGD PVN bị VKS đề nghị mức án từ 12 -13 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại khoản 3, Điều 165, BLHS.
Tại bản cáo trạng, hành vi của bị cáo Phùng Đình Thực được nêu rút gọn là “đã cùng bị cáo Đinh La Thăng có hành vi sai phạm trong việc chỉ đạo PV Power ký Hợp đồng EPC số 33 với PVC trái quy định, sau đó chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban quản lý dự án căn cứ Hợp đồng này cấp tạm ứng 6.607.500 USD và 1.312.076.568.646 đồng cho PVC để bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm sử dụng không đúng mục đích, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền hơn 119 tỷ đồng”.
Là người bào chữa cho bị cáo Phùng Đình Thực, luật sư Đinh Anh Tuấn có quan điểm cho rằng bị cáo Thực không chỉ đạo PVC làm tổng thầu.
Luật sư Tuấn trình bày, sở dĩ ông Thăng phải thay đổi từ PVC làm tổng thầu sang liên danh tổng thầu là bởi ngày 10/9/2010, ông Thực đã ký Quyết định số 8146/QĐ-DKVN thành lập Ban Chỉ đạo các dự án Nhiệt Điện Than do ông Nguyễn Quốc Khánh làm Trưởng ban; trong văn bản đó, ông Thực yêu cầu Ban này xây dựng phương án lỉên danh tổng thầu cho Dự án NMNĐ Thái Bình 2, do ông Thực nhận thấy PVC chưa có kinh nghiệm làm tống thầu, vì vậy cần triển khai từng bước. Trước hết PVC cần tham gia vào liên danh tổng thầu.
Luật sư Tuấn nhấn mạnh chính bị cáo Thực là người đưa ra phương án cần có một liên danh tổng thầu. Trong hồ sơ hoàn toàn không có tài liệu nào cho thấy sau đó ông Thực thay đổi quan điểm, đưa ra những chỉ đạo mới nhằm thay đổi phương án liên danh tống thầu thành phương án PVC làm tổng thầu.
Cũng theo luật sư Tuấn, bị cáo Phùng Đình Thực không thúc ép tiến độ đến mức Hợp đồng EPC phải được ký cho kịp ngày khởi công Dự án NMNĐ Thái Bình 2. Bởi theo sự thu thập chứng cứ của các luật sư, một số văn bản của PV Power đã không được chuyển đến tay của bị cáo Phùng Đình Thực.
Cũng liên quan đến Hợp đồng 33, luật sư Tuấn trình bày, trước ngày 16/6/2011, bị cáo Phùng Đình Thực không biết Hợp đồng số 33 thiếu căn cứ pháp lý và chưa có hiệu lực thi hành. Chứng minh là trong hồ sơ vụ án hoàn toàn không có một tài liệu nào thể hiện bị cáo Thực đã tự chỉ đạo hoặc kết hợp với bị cáo Đinh La Thăng cùng chỉ đạo hai đơn vị thành viên PV Power và PVC ký một hợp đồng chỉ đạt yêu cầu về hình thức và chỉ để nhằm đạt được mục đích kịp khởi công Dự án.
Thậm chí, có nhiều văn bản do các ban chuyên môn và các đơn vị thành viên gửi đích danh TGĐ Phùng Đình Thực để báo cáo về việc thực hiện Hợp đồng 33, nhưng thực tế trong các tài liệu, chứng cứ mà luật sư giao nộp, thì những văn bản trên đã không được chuyển đến tay bị cáo Thực.
Luật sư Tuấn cũng chỉ ra rằng bị cáo Phùng Đình Thực không cố ý làm trái khi ủy quyền cho bị cáo Nguyễn Quốc Khánh ký Hợp đồng số 4194. Bởi hồ sơ vụ án cho thấy ông Thực ký quyết định ủy quyền cho Nguyễn Quốc Khánh là đúng thẩm quyền.
Theo nội dung văn bản ủy quyền, khi thực hiện công việc được ủy quyền, bị cáo Khánh cần kiểm tra, rà soát kỹ lưỡng Hợp đồng 33, nếu có khó khăn vướng mắc phải báo cáo lại ông Thực.
Trên thực tế, ngày 13/5/2011, bị cáo Khánh đã ký hợp đồng chuyển đổi chủ thể số 4194/HĐ-DKVN mà không báo cáo lại với ông Thực về rủi ro pháp lý của Hợp đồng 33.
Trên cơ sở đánh giá các tài liệu, chứng cứ và kết quả tranh tụng tại tòa, luật sư Tuấn đề nghị HĐXX tuyên bố không đủ căn cứ để kết luận bị cáo Phùng Đình Thực đã có hành vi cấu thành tội Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.