Không chỉ dân ven Thăng Long, người tứ chiếng cũng mang sản phẩm tự làm về bán. Tục bán muối sáng mùng 1 Tết bắt nguồn từ dân vùng biển gánh muối bán lẻ ở Thăng Long. Trong cuốn sách Miêu tả vương quốc xứ Đàng Ngoài xuất bản thế kỷ XVII, tác giả Baron viết: “Thăng Long có nhiều chợ nhưng vẫn có người bán hàng rong, họ bán các mặt hàng do chính họ làm ra. Vì không phải dân Thăng Long nên họ không thể mở cửa hàng ở các phường nghề”. Ngoài lý do như Baron đưa ra còn có lý do khác, bán hàng rong là người nghèo, họ không có tiền để trả phí ngồi trong chợ.
Để người mua biết mình bán gì, người bán hàng rong buộc phải rao. Cuốn Quảng tập viên văn (Chrestomathie Anamite, xuất bản ở Paris năm 1898), Edmond Nordemann, tác giả cuốn sách đã liệt kê ra 31 mặt hàng bán rong thông qua tiếng rao gồm: Bán cá biển, các loại bánh, hàn nồi, vá võng, thu mua đồ đồng nát... Khi các khu phố mới được xây dựng ở phía Đông và Nam Hồ Gươm (ngày nay là phố Ngô Quyền, Lê Phụng Hiểu, Tràng Tiền, Tràng Thi, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo... đông đúc dân cư là người Pháp và người Việt giàu có thì chính quyền ra lệnh cấm hàng rong. Nhưng ở các con phố khác họ lại không cấm.
Theo thời gian, hàng hóa bán rong đa dạng hơn. Cuốn Hàng rong và tiếng rao trên phố Hà Nội của F.Fénis xuất bản năm 1929 in 28 ký họa do sinh viên trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vẽ cho thấy có thêm rất nhiều mặt hàng như: Tào phớ, kem, quả dâu, mía đã tiện thành khẩu, báo... Từ năm 1930-1945, cùng với con sen, thằng xe, cơm đầu ghế... hàng rong cũng là đối tượng phản ánh của các nhà văn hiện thực phê phán. Báo Trung Bắc tân văn đã đăng truyện ngắn Hạt ngọc trên phố của Vũ Sang kể về một bà đầm già ở khu phố Nam Hồ Gươm mê món cốm Vòng. Cứ vào mùa, ngày nào bà ta cũng sai con sen gọi cô bán cốm đến nhà và một ngày cảnh sát phát hiện đã đá cái thúng, các hạt cốm xanh văng ra hè...
Nữ nhà văn Pháp Hilda Arnhold vô cùng mê tiếng rao của người bán hàng rong và bà đã viết cuốn sách Bắc Kỳ-Phong cảnh và ấn tượng trong đó tả chi tiết về tiếng rao, thân phận của họ, những người mà theo bà là tầng lớp nghèo trong xã hội.
Sau ngày tiếp quản Thủ đô (10/10/1954), hàng rong ít hơn vì chính quyền yêu cầu người nhập cư về quê làm nông nghiệp khi họ đã được chia ruộng đất. Trong giai đoạn Mỹ đánh phá miền Bắc hàng rong cũng ít do chiến tranh và hàng hóa khan hiếm. Tuy nhiên tại các bến tàu, bến xe, trên các tuyến tàu điện vẫn có một lượng người bán rong, họ bán đồ dùng sinh hoạt như: Rút dép, dây chun, bấc đèn, kim băng, lơ tẩy...cùng cao dán nhọt, dầu nóng...
Từ khi thực hiện mở cửa hàng rong xuất hiện nhiều hơn, mặt hàng đa dạng hơn và phương tiện, ngoài quang gánh hay khoác vai như trước, họ dùng xe đạp, xe đẩy đi khắp phố phường, dùng loa để rao hàng. Tại sao Hà Nội có rất nhiều chợ truyền thống, lại thêm siêu thị và hầu như ngõ ngách nào cũng có nhà bán tạp hóa, hàng quà mà hàng rong vẫn không giảm? Có lẽ ngoài sự tiện lợi thì giá rẻ hơn vì bán rong không phải đóng thuế, không mất tiền thuê cửa hàng, đó là những lý do chính để hàng rong tồn tại. Ở góc độ văn minh đô thị, hàng rong quả là vấn nạn, song không dễ giải quyết...
Nguyễn Ngọc Tiến