Thời kỳ hoàng kim
Nhà máy Diêm Thống Nhất được thành lập năm 1956, là công xưởng sản xuất đầu tiên được xây dựng tại Miền Bắc sau năm 1954. Nhà máy này thậm chí còn ra đời trước những thương hiệu xưa của Hà Nội như Điện cơ Thống Nhất, Giày Thượng Đình (1957), Bóng đèn Phích nước Rạng Đông (1961), Cao su Sao Vàng (1960)…

Những bao diêm có hình chim bồ câu trắng trên nền trời xanh là hình ảnh quen thuộc với không ít người dân Việt Nam.
Cùng với các sản phẩm giày của Thượng Đình, cao su Sao Vàng, bóng đèn phích nước của Rạng Đông, quạt điện Thống Nhất… diêm Thống Nhất là sản phẩm đặt nền móng cho nền sản xuất miền Bắc.
Ở giai đoạn đầu, toàn bộ sản phẩm của nhà máy đều là diêm. Những bao diêm có hình chim bồ câu trắng trên nền trời xanh là hình ảnh quen thuộc với không ít người dân Việt Nam. Đây cũng là giai đoạn hoàng kim nhất của sản phẩm này.
Khi còn hoạt động dưới thời kỳ bao cấp, không vì mục tiêu lợi nhuận, Diêm Thống Nhất gần như nắm giữ 100% thị phần diêm tạo lửa tại thị trường phía Bắc. Nhà máy Diêm Thống Nhất tấp nập với hàng nghìn công nhân sản xuất ngày đêm.
Đến năm 1993, nhà máy chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp với tên gọi Công ty Diêm Thống Nhất với quy mô hơn 500 lao động.
Khi hầu hết gia đình Việt vẫn sử dụng bếp than và bếp củi để sinh hoạt, những bao diêm Thống Nhất có giá chỉ 100 đồng đã trở thành sản phẩm không thể thiếu trong sinh hoạt của người dân.
Không chỉ phục vụ nhu cầu người tiêu dùng trong nước, diêm Thống Nhất cũng đã được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Trong đó, khách hàng ngoại lớn nhất mua diêm từ Việt Nam Công ty Sincer Match của Malaysia.
Ngọn lửa tắt dần
Là một trong số ít thương hiệu vang bóng một thời còn sản xuất kinh doanh và chưa năm nào phải báo lỗ, nhưng hoạt động của Diêm Thống Nhất gặp rất nhiều khó khăn trước sự cạnh tranh từ các sản phẩm tạo lửa khác của Trung Quốc.
Từ giai đoạn nền kinh tế bắt đầu mở cửa, cũng như nhiều thương hiệu xưa khác, Diêm Thống Nhất cũng bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản phẩm tạo lửa từ nước ngoài, đặc biệt là bật lửa Trung Quốc.

Một xưởng làm việc trong nhà máy Diêm Thống Nhất. Ảnh: Lao động
Năm 2018, công ty ghi nhận 123 tỷ đồng doanh thu nhưng giá vốn chiếm hơn 83%, sau khi trừ các chi phí hoạt động Diêm Thống Nhất thu về vỏn vẹn 2 tỷ đồng lãi ròng sau thuế.
Nhiều năm trước đó, doanh thu công ty đều đạt trên 100 tỷ nhưng dây chuyền sản xuất cũ, giá nguyên liệu tăng khiến giá vốn công ty luôn chiếm tỷ lệ cao. Kết quả lợi nhuận dao động trong khoảng 2-3 tỷ/năm, thấp hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp xưa khác.
Lãnh đạo công ty từng thừa nhận, so với sản lượng tiêu thụ hơn 180 triệu bao diêm/năm cách đây 10 năm, sản lượng diêm hiện nay đã giảm xấp xỉ 50% xuống còn khoảng 100 triệu bao/năm. Đà sụt giảm này được dự báo sẽ tiếp tục khi các sản phẩm tạo lửa trên thị trường ngày càng đa dạng, số lượng người dân chuyển sang dùng bếp gas, bếp điện cũng tăng nhanh.
Nguyên vật liệu đầu vào sử dụng trong sản xuất các sản phẩm của công ty chủ yếu là gỗ. Nguyên liệu này chiếm gần 50% đối với diêm, trong khi các hóa chất, phụ liệu khác chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài. Những biến động về giá cả nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty này.
Việc thu mua gỗ phù hợp với sản phẩm cũng ngày càng trở nên khó khăn vì nguồn cung ngày càng hạn chế, giá cao.